Monday 26 October 2009

Chuyện kể của David lúc 0 giờ

Những buổi tối ngồi nói chuyện với David rất hay. David có nhiều kỉ niệm và những mẩu chuyện thú vị khi còn làm phóng viên ảnh cho National Geographic nghe qua rất thích. Anh đi nhiều, thấy nhiều và trải nghiệm nhiều chuyện lạ lùng. Tôi không tin và rất sợ nghe những thứ kỳ quái đó của anh mặc cho anh huyên thuyên kể như thể nó vừa xảy ra ngày hôm qua. Mặc cho tôi Oh Ah Noway OMG Jesus,...

Một lần David phải rời Taipei để lên rừng ở núi Taiping làm phóng sự ảnh về dãy thực vật nguyên sinh. Anh quyết định chạy motor 250cc thay vì đi ôtô. Thật ra thì máu phiêu lưu của lãng tử lúc nào chẳng thế.

Đó là một chặng đường khó khăn, David nói, thời tiết tháng 9 khá xấu với những cơn mưa nhỏ hạt nhưng kèm theo gió thốc. May mà không gặp cơn bão nào khi băng qua những ngọn đèo địa thế rất chênh vênh. David bỗng xuống giọng làm tôi cũng thấy hồi hộp, vẫn tốc độ đều đều anh kể tiếp: "Đó là một khúc quanh khá gắt, đã có nhiều tai nạn xảy ra và nhiều người bỏ mạng. Trong số đó dĩ nhiên không thiếu những câu chuyện ly kỳ, hư hư giả giả do người ta thêu dệt nên; cũng có cái khiến người ta không thể không tin.

David hỏi tôi: " Em đoán xem tôi đã thấy gì khi chạy qua khúc quanh đó. Tôi chạy với tốc độ 40km/giờ gần đến một cây cầu vắt qua con suối ở bờ đối diện. Có ánh sáng vàng vọt từ bóng đèn đường hắt xuống và bóng dáng của CÁI GÌ ĐÓ. Tôi chạy khá chậm vì lúc 7 giờ đường đèo trời đã tối kín như bưng. Tuy mắt khá mỏi vì chặng đường dài hơn 2 tiếng nhưng tôi thấy rõ mồn một màu áo HỌ mặc trên người là MÀU TRẮNG. Họ có 2 và tôi dám cá với em điều đó. Tôi ý thức được những gì mình vừa thấy nhưng theo phản xạ, tôi không dừng lại mà nhấn ga chạy vụt qua."

David dừng lại, nhấp một ngụm café loãng tôi pha cho anh trước đó, rồi tiếp: "Em biết không? Khi trở về Taipei, điều tôi làm đầu tiên là mua thức ăn, trái cây, vài thứ nhang đèn và lập bàn cầu nguyện. Mẹ tôi đã giúp tôi thắp nhang khấn vái cho những thứ mà tôi thấy trong đêm đó. Em biết mà, người già thường rất thạo những việc như thế này." David nhìn tôi và anh vẫn không ngừng nói: "Tin tôi đi. Họ không có ý định hù dọa hay làm hại em đâu. Khi họ cho em trông thấy có nghĩa là họ đang cần sự giúp đỡ của em. Tôi đã từng làm thế và em nên tự trấn an mình nếu em gặp những loại câu chuyện kì bí đó."
***
Đó là khi tôi và David ngồi lại bên nhau để tám những chuyện trên trời dưới đất. Nội dung bắt đầu từ việc David rủ rê tôi cycling cùng anh một chuyến từ Sài Gòn ra Hà Nội rồi lên Sapa vào tháng 11. Sau đó lại kết thúc bằng cái quái quỉ trên lúc đồng hồ gõ bong... bong... đúng 12 giờ khuya.
 

Thật vô nhân đạo mà! Chỉ vì cái bóng áo trắng đó của David mà tôi trùm mền trằn trọc đến 1 giờ sáng . 

Mà chuyện cycling nghe thú vị phết. Ngoại trừ việc tôi chưa bao giờ đạp xe quá 10km từ lúc 15 tuổi đến giờ và lác mông là điều hoàn toàn không thể tránh khỏi. 


Damn it! Mission sounds interesting but totally impossible. How can I say yes?


Paris trong nỗi nhớ nhung và tình yêu cháy bỏng

Paris - kinh đô ánh sáng hoa lệ. Tôi đã từng đến Paris 2 lần và mỗi lần trong những chuyến đi ngắn ngủi, tôi đều kinh ngạc bởi cảm giác như thể tôi vừa trở về nhà mình.        
Chuyến đi đến Pháp lần đầu tiên của tôi thật ngắn ngủi, chỉ 9 ngày, năm tôi 16 tuổi. Chúng tôi chỉ ở Paris có vài ngày và hầu như chẳng đủ thời gian đề thăm tháp Eiffel. Mặc dù vậy, chúng tôi đã cố gắng hết sức thu xếp để được nhìn thấy ngọn tháp nổi tiếng này từ vị trí đẹp nhất của nó.   Tôi trở lại Pháp lần thứ 2 mấy mùa hè sau đó và tôi thực sự cảm nhận được vẻ đẹp lãng mạn của Paris dưới đôi mắt của một kẻ đang yêu. Tôi ở cùng với bạn trai trong một căn hộ nhỏ có nhà bếp và phòng tắm be bé xinh xinh ở quận 18 bên dưới Montmatre tí xíu trong 2 tháng.   
 
Mỗi buổi sáng, chúng tôi thỏa thuận với nhau là sẽ cố kiếm cho bằng được một cửa hiệu bán bánh mới và thử món bánh pain au chocolat của họ. Uhm, thật đó, mỗi sáng một cửa hiệu khác nhau một hương vị pain au chocolate khác nhau. Rất thú vị đúng không? Chúng tôi cũng mua hoa quả và gia vị ở dưới phố để làm pesto và salad, ăn berries tươi roi rói cùng với crème fraîche. Hầu như chỉ khoảng 2 lần trong 1 tuần là chúng tôi đi ăn ở ngoài. Tiết kiệm mà, chỉ thỉnh thoảng anh hết biết nắu món gì của Pháp để đãi tôi thôi.   Anh mua hai quyển tập vẽ nháp to đùng. Một cho anh, một cho tôi. Anh nói là để luyện tay vẽ cho tôi vì tôi chẳng có lý do gì để phí phạm cái khung cảnh tuyệt đẹp mà mỗi buổi sáng thức dậy, tôi vén rèm cửa nhìn xuống, dân tình, nhà cửa chen chúc theo một trật tự rất mỹ thuật. Từ tầng 6, ánh nắng nhàn nhạt và bầu trời trong xanh, từng cụm mây bềnh bồng đến là dễ thương.      
Và thời tiết thì khó tin vô cùng.  Không hề có một giọt mưa hàng tháng trời cho đến ngày cuối cùng tôi ở nhà anh. Mỗi ngày, tôi đều giở quyển Petite futé, một quyển guide rất hay về Paris mà bạn nên có khi đến thành phố này, tôi đọc và tìm thấy một công viên mới để có thể đi loanh quanh, thăm thú trong ngày. Tiêu chí là phải hoặc gần nhà hoặc trong nội thành sau đó sẽ bắt subway để đi đến đó. Picnic nhất thiết phải có bánh mì baguette, cheese, avocado (toàn những món tôi thích cả). Với anh thì chỉ cần có vài grapes và lettuce là ổn. Chúng tôi mua baguette ở những tiệm khác nhau và thích thú với những lời nhận định của chúng tôi về từng loại, như một nhà ẩm thực chuyên nghiệp. Loại baguette ngon nhất là loại mà khi bạn cần ở phần giữa của bánh hai đầu bánh từ từ gập xuống rất mềm mại. Ở Việt Nam mọi người lại chuộng loại baguette dòn rụm và phải nóng hổi mới ra lò. Tôi biết có người thường xuyên đứng đợi hàng tiếng đồng hồ để có được một lứa bánh nóng.         
Sau những buổi picnic, chúng tôi chơi game Scrabble, thỉnh thoảng đi lại chụp ảnh hết xó này đến xó khác. Buổi tối thì đi nghe concert - string quartets, organ recitals, choirs, nhiều chỗ lắm nào churches, cathedrals nào công viên loanh quanh Paris.      
Đó là một mùa hè giản dị và tuyệt vời nhất tôi từng trải qua trong đời.     
Chào nhé, hẹn Paris ngày nắng xinh mùa sau.